Thiết kế và phát triển Gloster_Meteor

Việc phát triển một mẫu máy bay tiêm kích trang bị động cơ phản lực được thực hiện vào năm 1940 tại công ty của Ngài Frank Whittle có tên là Power JetsCông ty máy bay Gloster. George Carter làm tổng công trình sư của dự án Gloster, đã trình bày đề xuất ban đầu cho một loại máy bay tiêm kích phản lực hai động cơ vào tháng 8-1940. Gloster đã nhận được lệnh sản xuất 12 nguyên mẫu (sau đó giảm xuống còn 8) trong Bản quy cách F9/40 vào 7/2/1941.[2] Máy bay phản lực đầu tiên của Anh là nguyên mẫu Gloster E28/39 trang bị 1 động cơ, thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 15/5/1941.[3] Một khuyến nghị về việc sản xuất 300 chiếc máy bay tiêm kích mới đặt tên là Thunderbolt, đã được đệ trình vào 21/6 nhưng để tranh nhầm lẫn với loại P-47 Thunderbolt của USAAF, tên gọi đã được thay đổi thành Meteor.[4][5]

Meteor có cấu trúc hoàn toàn bằng kim loại với bộ càng có 3 bánh, cánh thẳng, động cơ phản lực đặt giữa các cánh, có cánh đuôi đặt cao.

8 nguyên mẫu đầu tiên được chế tạo, nhưng việc chậm trễ trong việc phê chuẩn kiểu động cơ đã dẫn tới các thử nghiệm bị chậm tiến độ. Nguyên mẫu thứ 5 có mã DG206, trang bị hai động cơ de Havilland Halford H.1 do các vấn đề xảy ra đối với động cơ dự định trang bị là loại Whittle W.2, đã bay lần đầu vào ngày 5/3/1943 tại RAF Cranwell, do phi công Michael Daunt điều khiển.[3] Việc phát triển máy bay sau đó chuyển tới cho Newmarket Heath và sau đó được đặt tại Moreton Valence. Máy bay trang bị động cơ Whittle đầu tiên có mã DG205/G, cất cánh ngày 12/6/1943 (nó đã bị rơi ngay sau khi cất cánh vào ngày 27/4/1944) và tiếp sau đó là DG202/G bay ngày 24/7. DG202/G sau đó được sử dụng cho các thử nghiệm trên tàu sân bay HMS Pretoria Castle.[6] DG203/G thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 9/11/1943 nhưng cuối cùng lại được sử dụng làm giáo cụ giảng dạy dưới mặt đất. DG204/G (trang bị động cơ Metrovick F.2) bay lần đầu 13/11/1943 và bị rơi ngày 1/4/1944. DG208/G bay ngày 20/1/1944, các vấn đề thiết kế chính đã được khắc phục ở nguyên mẫu này và thiết kế sản xuất được phê duyệt. DG209/G được sử dụng để thử nghiệm tĩnh động cơ cho hãng Rolls-Royce, bay lần đầu ngày 18/4/1944, trong khi DG207/G dự định để làm cơ sở cho Meteor F.2 trang bị động cơ de Havilland, cất cánh ngày 24/7/1945, sau đó Meteor 3 được sản xuất còn F.2 bị hủy bỏ.[7][8]

Ngày 12/1/1944, chiếc Meteor F.1 đầu tiên có số hiệu EE210/G, đã cất cánh từ Moreton Valence. Về cơ bản nó giống với các nguyên mẫu thuộc bản quy cách kỹ thuật F9/40 và thêm vào 4 khẩu pháo 20 mm (.79 in) Hispano Mk V đặt ở mũi và một số thay đổi ở kính buồng lái để cải thiện tầm nhìn chung. Để phù hợp với Meteor F.1, động cơ đã được chuyển sang thiết kế Whittle W.2 của Rolls-Royce. Động cơ phản lực W.2B/23C tạo lực đẩy 1,700 lbf (7.58 kN), cho phép máy bay đạt tốc độ tối đa 417 mph (670 km/h) trên độ cao 3,000 m và có tầm hoạt động 1,610 km. Meteor Mk.I có sải cánh dài hơn, trọng lượng rỗng là 8,140 lb (3,823 kg) và có trọng lượng cất cánh tối đa đạt 13,795 lb (6,270 kg).[9] Chiếc máy bay này sau đó được gửi tới Mỹ, tại đây nó bay lần đầu tại Sân bay lục quân Muroc ngày 15/4/1944.[10] Meteor F.1 gặp vấn đề điển hình của những chiếc máy bay phản lực thời kỳ đầu đó là các vấn đề về cân bằng ở vận tốc cận âm.[11]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gloster_Meteor http://www.aviationmuseum.com.au/aircraft/Meteor.c... http://www.raaf.gov.au/airpower/publications/pathf... http://www.adf-serials.com/2a77.shtml http://www.flightglobal.com/pdfarchive/view/1945/1... http://www.flightglobal.com/pdfarchive/view/1945/1... http://books.google.com/books?id=mzDI68WOy4UC&pg=P... http://video.google.com/videoplay?docid=1812595429... http://zurakowskiavroarrow.homestead.com/Biography... http://www.meteorflight.com http://www.the-best-of-british.com/PlaneCrazyHerit...